Xuất Khẩu Của Trung Quốc Năm 2023

Xuất Khẩu Của Trung Quốc Năm 2023

​(CAO) Xuất khẩu cả năm của Trung Quốc đã giảm lần đầu tiên kể từ năm 2016 do nhu cầu toàn cầu sụt giảm.

​(CAO) Xuất khẩu cả năm của Trung Quốc đã giảm lần đầu tiên kể từ năm 2016 do nhu cầu toàn cầu sụt giảm.

Xuất nhập khẩu thép của Trung Quốc năm 2021

Nhập khẩu thép bán thành phẩm của Trung Quốc giảm đáng kể, ở mức 32% xuống còn 12,5 triệu tấn trong năm 2021. 75% tổng lượng thép bán thành phẩm nhập khẩu là phôi và khối lượng giảm vừa phải, ở mức 4% so với cùng kỳ xuống còn 9,4 triệu tấn trong năm 2021. Các nguồn chính phôi thép nhập khẩu vào Trung Quốc là từ Việt Nam, Indonesia, Ấn Độ, Oman và Iran, theo đó lượng nhập khẩu của mỗi nước vượt một triệu tấn. Nga không phải là nguồn nhập khẩu phôi đối với Trung Quốc trước năm 2019. Trung Quốc bắt đầu nhập khẩu phôi từ Nga trong những năm Covid 19 và khối lượng đáng kể là 1,5 triệu tấn năm 2020 và giảm xuống còn nửa triệu tấn trong năm 2021. Trung Quốc bắt đầu nhập khẩu phôi từ Ukraine trong năm 2020, ở mức nửa triệu tấn. Tuy nhiên, khối lượng đã giảm một nửa trong năm 2021.

Mặt khác, nhập khẩu phôi tấm giảm đáng kể, từ 7,3 triệu tấn năm 2020 xuống còn 2,4 triệu tấn năm 2021. Các nguồn phôi tấm chính là Indonesia, Việt Nam và Nga. Nhập khẩu từ Indonesia được cho là từ PT Dexin Steel. Trung Quốc bắt đầu nhập khẩu phôi tấm từ Nga trong năm 2019, ở mức 132.184 tấn. Khối lượng nhập khẩu tăng vọt lên 1,7 triệu tấn vào năm 2020 và giảm xuống 248.907 tấn năm 2021.

Nhập khẩu thép hình và thép cuộn vào Trung Quốc giảm lần lượt 2% và 10%. Trong khi đó, nhập khẩu thép thanh tăng đáng kể, 26% so với cùng kỳ lên 3,6 triệu tấn. Nhật Bản là nguồn chính đối với nhập khẩu thép hình của Trung Quốc. Đối với thép cuộn và thép thanh, Malaysia là nguồn nhập khẩu lớn nhất. Đây có thể là nguồn cung từ đầu tư thép của Trung Quốc vào Malaysia.

Nhập khẩu sản phẩm thép dẹt của Trung Quốc giảm đáng kể trong hầu hết các sản phẩm. Nhập khẩu thép tấm (HRP) giảm 36% so với cùng kỳ xuống còn 1,6 triệu tấn. Nhập khẩu thép cuộn cán nóng (HRC) giảm 65% so với cùng kỳ xuống 2,6 triệu tấn trong năm 2021. Các nguồn nhập khẩu HRP và HRC chính là Nhật Bản và Hàn Quốc. Nhập khẩu thép cuộn cán nguội (CRC) giảm 11% so với cùng kỳ năm trước xuống còn 3,3 triệu tấn trong năm 2021. Các nguồn nhập khẩu chính là Hàn Quốc, Indonesia, Nhật Bản và Đài Loan.

Nhập khẩu tôn mạ kẽm, tấm tráng thiếc và không chứa thiếc của Trung Quốc ghi nhận mức tăng trưởng dương lần lượt là 19% và 21%. Tuy nhiên, nhập khẩu tôn mạ kẽm nhúng nóng, tôn mạ kẽm, tôn mạ màu và các loại tôn mạ khác lại giảm ở mức vừa phải. Nhập khẩu cả ống không hàn và ống hàn lần lượt giảm 14% và 2%.

Xuất khẩu thép bán thành phẩm của Trung Quốc ở mức thấp là 35.994 tấn trong năm 2021. Xuất khẩu thép hình giảm 13% so với cùng kỳ năm ngoái xuống còn 1,7 triệu tấn. 60% xuất khẩu thép hình là thép hình hợp kim. Phần lớn xuất khẩu được gửi đến Hồng Kông, Philippines, Malaysia, Hàn Quốc, Indonesia và Myanmar.

Xuất khẩu thép thanh tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước lên 4,8 triệu tấn trong năm 2021. 70% lượng xuất khẩu là thép thanh hợp kim. Một phần tư số thép thanh xuất khẩu là đến Hàn Quốc. Xuất khẩu thép cuộn của Trung Quốc tăng 11% so với cùng kỳ năm trước lên 3,3 triệu tấn và 80% trong số đó là thép cuộn hợp kim. Các thị trường xuất khẩu thép cuộn chính là Hàn Quốc và các nước ASEAN.

Xuất khẩu thép tấm từ Trung Quốc giảm nhẹ, ở mức 2% so với cùng kỳ năm ngoái. Xuất khẩu thép tấm cácbon tăng từ 149.247 tấn lên 1,3 triệu tấn trong khi xuất khẩu tấm hợp kim giảm từ 3 triệu tấn xuống 1,8 triệu tấn. Người ta cho rằng đây là sự điều chỉnh của báo cáo xuất khẩu. Các điểm đến chính là Việt Nam và Hàn Quốc.

Mặt khác, xuất khẩu thép cuộn cán nóng tăng gần gấp đôi về lượng lên 10,8 triệu tấn trong năm 2021. Trung Quốc xuất khẩu HRC sang nhiều nước khác nhau, chủ yếu là Việt Nam, Hàn Quốc, Pakistan và Ả Rập Xê Út.

Trung Quốc xuất khẩu thép cuộn cán nguội sang nhiều nước và khối lượng tăng gần gấp đôi lên 8,8 triệu tấn trong năm 2021. Các thị trường chính là Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Đài Loan, Brazil và Ấn Độ.

Đối với tấm mạ phủ, nhiều mặt hàng xuất khẩu tấm phủ, bao gồm tấm mạ kẽm, tấm tráng thiếc và không chứa thiếc và các tấm mạ khác tăng đáng kể, ở mức 20-66% so với cùng kỳ năm trước. Mặt khác, xuất khẩu tôn mạ màu giảm 1,7% so với cùng kỳ năm trước. Các điểm đến chính là Thái Lan, Hàn Quốc, Philippines, Brazil, Indonesia và Việt Nam.

Xuất khẩu cả ống không hàn và ống hàn của Trung Quốc đều tăng vừa phải, ở mức 4-5% so với cùng kỳ năm trước. Trung Quốc xuất khẩu ống thép đi nhiều nước, chủ yếu là các nước ASEAN, Châu Á, Trung Đông và Châu Phi.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Trung Quốc, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu thương mại hàng hóa của nước này 7 tháng đầu năm đạt 23.550 tỷ nhân dân tệ, tăng 0,4% so cùng kỳ năm ngoái. Trong đó xuất khẩu đạt 13.470 tỷ nhân dân tệ, tăng 1,5% so cùng kỳ năm ngoái; nhập khẩu đạt 10.080 tỷ nhân dân tệ, giảm 1,1% so cùng kỳ năm ngoái.

Tính riêng tháng 7/2023, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 3.460 tỷ nhân dân tệ, giảm 8,3% so cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, ASEAN tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc. Trong 7 tháng đầu năm, tổng kim ngạch thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc đạt 3.950 tỷ nhân dân tệ, tăng 2,8% so cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc với các đối tác thương mại lớn như EU, Mỹ và Nhật Bản lần lượt giảm 0,1%, 9,6% và 5,8%.

Mặc dù nhu cầu của thế giới giảm, nhưng xuất khẩu của Trung Quốc vẫn duy trì đà tăng trưởng, một số mặt hàng trở thành điểm sáng. Trong 7 tháng đầu năm, xuất khẩu sản phẩm cơ điện đạt 7.830 tỷ nhân dân tệ, tăng 4,4% so cùng kỳ năm ngoái, chiếm 58,1% tổng giá trị xuất khẩu, trong đó xuất khẩu ô tô, tàu thuyền, thiết bị điện lần lượt tăng 118,5%, 23,8% và 21,9%.

Về nhập khẩu, do sản xuất công nghiệp ổn định, tiêu dùng vẫn đang đà phục hồi, nên lượng nhập khẩu các sản phẩm năng lượng-khoáng sản chính vẫn tăng trưởng ổn định, một số mặt hàng tiêu dùng có tốc độ tăng trên 10%. Cụ thể, 7 tháng đầu năm, lượng nhập khẩu sản phẩm năng lượng, quặng kim loại lần lượt tăng 33,3% và 7,9% so cùng kỳ năm ngoái; hàng tiêu dùng (không tính ô-tô nhập khẩu) đạt 962,74 tỷ nhân dân tệ, tăng 10,1% so cùng kỳ năm ngoái.

Theo ông Lu Daliang, Vụ trưởng Vụ Phân tích Thống kê Tổng cục Hải quan Trung Quốc, bắt đầu từ quý II năm nay, quy mô xuất nhập khẩu hằng tháng của Trung Quốc luôn duy trì mức trên 3.400 tỷ nhân dân tệ. Nhìn chung, hoạt động xuất khẩu vẫn ổn định, đúng xu hướng dự báo, và triển vọng trong dài hạn vẫn rất tích cực.