Bài Thơ Nam Quốc Sơn Hà Do Ai Sáng Tác

Bài Thơ Nam Quốc Sơn Hà Do Ai Sáng Tác

Hà Nội có chong chóng Cứ tự quay trong nhà Không cần trời thổi gió Không cần bạn chạy xa Hà Nội có nhiều hoa Bó từng chùm cẩn thận Mấy chú vào mua hoa Tươi cười ra mặt trận Hà Nội có Hồ Gươm Nước xanh như pha mực Bên hồ ngọn Tháp Bút Viết thơ lên trời cao Hà Nội có nhiều hào Bụng súng đầy những đạn Và có nhiều búp bê Bóng tròn cho các bạn Hà Nội có tàu điện Đi về cứ leng keng Người xuống và người lên Người nào trông cũng đẹp Mấy năm giặc bắn phá Ba Đình vẫn xanh cây Trăng vàng chùa Một Cột Phủ Tây Hồ hoa bay…

Hà Nội có chong chóng Cứ tự quay trong nhà Không cần trời thổi gió Không cần bạn chạy xa Hà Nội có nhiều hoa Bó từng chùm cẩn thận Mấy chú vào mua hoa Tươi cười ra mặt trận Hà Nội có Hồ Gươm Nước xanh như pha mực Bên hồ ngọn Tháp Bút Viết thơ lên trời cao Hà Nội có nhiều hào Bụng súng đầy những đạn Và có nhiều búp bê Bóng tròn cho các bạn Hà Nội có tàu điện Đi về cứ leng keng Người xuống và người lên Người nào trông cũng đẹp Mấy năm giặc bắn phá Ba Đình vẫn xanh cây Trăng vàng chùa Một Cột Phủ Tây Hồ hoa bay…

Phân tích tác phẩm Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây

Bài thơ “ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” của Phạm Tiến Duật được sáng tác trên cảm hứng lịch sử, được ngân lên từ tiếng lòng, tình cảm đằm thắm, sức sống mãnh liệt và niềm tin tất thắng trong tâm hồn của những người lính Trường Sơn thuở ấy.“Trường Sơn đông, Trường Sơn tây” thực sự là một bản tình ca trong chiến tranh.

Nói đến Phạm Tiến Duật “con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại” là nói đến "nhà thơ lớn thời chống Mỹ” với phong cách nghệ thuật độc đáo, giàu chất lính. Thơ ông là tiếng nói sôi nổi, lạc quan, ca ngợi tình yêu lứa đôi, tình đồng đội, tình quê hương đất nước với giọng điệu trẻ trung, tinh nghịch mà sâu sắc. Trong tâm hồn của người chiến sĩ tài hoa, lãng tử ấy có sẵn niềm say mê được hoà mình vào không khí của những ngày sục sôi đánh Mỹ. Bài thơ “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” ra đời năm 1969 tại Quảng Bình. Ngay khi mới ra đời, bài thơ đã luôn có mặt trong túi áo của mỗi người lính trên tuyến lửa. Khi bài thơ được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc thì chất thơ, chất nhạc quyện chặt với nhau, nâng cánh cho nhau vang vọng khắp các chiến trường, thôi thúc hàng triệu trái tim Việt Nam xông pha nơi tiền tuyến, giết giặc lập công, giải phóng đất nước.

Thi phẩm viết theo thể thơ tự do, giàu chất nhạc, dễ nhớ, dễ thuộc làm toát lên vẻ đẹp tươi trẻ, chất trữ tình lãng mạn bay bổng hoà quyện với chất sử thi hào hùng. Mở đầu là lời tâm tình của đôi lứa yêu nhau nhưng phải chịu sự ngăn cách vời vợi vì ở hai đầu của dãy Trường Sơn hùng vĩ, hiểm trở và bởi nhiệm vụ thời chiến với bao thử thách và khốc liệt:

"Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn

Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây”.

Trên đường hành quân ra mặt trận, dẫu đầy cam go luôn rình rập, nhà thơ vẫn dành cho mình những phút riêng tư, gửi nỗi nhớ niềm thương về "em", người bạn gái đang hành quân bên sườn đông dãy Trường Sơn. Nhà thơ đã lấy không gian để đo nỗi nhớ của mình, nỗi nhớ “ em” lan toả ra cả không gian của đại ngàn Trường Sơn. Cùng chung dải rừng nhưng xa nhau vời vợi…Giữa hai chiều không gian đông – tây của Trường Sơn đã có sự kết nối với nhau thành một miền ký ức sâu thẳm đó là tình yêu của người lính đầy trong sáng và tình tứ. Nó đã làm nên những hương vị ngọt ngào để tiếp thêm sức mạnh, chiến đấu và chiến thắng cho những người chiến sĩ. Khát vọng cống hiến vì lẽ sống cao đẹp đã giúp cho “anh” và “ em” đi vào chiến trường khói lửa với tâm thái thanh thản. Chính giữa bộn bề gian khổ của đời lính, những câu thơ vút lên tươi rói chất liệu hiện thực khiến người đọc vừa thú vị vừa cảm động.

Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khác

Như anh với em, như Nam với Bắc

Như Đông với Tây một dải rừng liền.

Với biện pháp tu từ so sánh “Hai phía của dãy Trường Sơn cũng như hai con người (anh và em), hai miền đất nước (Nam và Bắc), hai hướng (Đông và Tây) của một dải rừng cùng với biện pháp tương phản: mây, mưa, nắng,... dù có khác nhau về vị trí địa lí, về khí hậu, thời tiết, màu mây ….dẫu trên cùng một dãy núi nhưng tình người, tình đồng đội, tình dân tộc, tình bạn chiến đấu, trước sau vẫn son sắt, gắn bó keo sơn, bền chặt thủy chung. Họ cách xa nhau về vị trí địa lý nhưng lòng vẫn hướng về nhau, “anh” gửi tình thương về bên “em”, quan tâm lo lắng cho “em”

Trường Sơn tây anh đi, thương em

Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo

Muỗi bay rừng già cho dài tay áo

Rau hết rồi, em có lấy măng không.

Dẫu bom đạn kẻ thù có cày xới cả dãy Trường Sơn song “anh” vẫn giữ cho mình một khoảnh khắc riêng tư. Những vật vô tri vô giác như mưa, nắng, khe, măng… đều cùng tham dự vào diễn biến tình yêu. Và đó cũng chính là dòng cảm xúc tha thiết và nhớ nhung của đôi lứa đang yêu. Bởi cảnh vật xung quanh như cũng hiểu thêm về tâm trạng của lứa đôi, của con người ấy.Trong “ anh” và “ em”, tình yêu nam nữ và tình yêu đất nước hòa quyện vào nhau. Nó trở thành động lực, hành trang nâng bước chân người chiến sĩ. Họ đã ngày đêm vật lộn với mưa bom bão đạn quân thù để chiến đấu và hoàn thành nhiệm vụ mà Tổ quốc giao phó. Tuy là những chất liệu đời thường nhưng chính tình yêu của những người chiến sĩ đã làm cho bức tranh ấy thêm phần thi vị. Ở đó không phải sự xù xì gân guốc của chiến trường mà là sự chân thành, đằm thắm, mến yêu.

Ngôn từ tự nhiên như lời người lính thường hay nói mà vẫn rất thơ. Con đường Trường Sơn là con đường vận tải huyết mạch đầy gian khổ, ác liệt, hy sinh. Trong trái tim người lính trẻ, tình yêu lứa đôi và tình yêu đất nước hòa quyện, tiếp thêm sức mạnh để người chiến sĩ vượt qua tất cả gian nan, có được niềm tin sắt son vào tương lai. Gắn bó với núi rừng Trường Sơn, với những đồng đội ngày đêm chiến đấu với kẻ thù, với bom đạn, “ em” và “anh” vẫn luôn lạc quan, tin tưởng, nhìn mọi thứ, kể cả những góc khuất và bi kịch của cuộc chiến qua một lăng kính hồn nhiên, vô tư đến lạ thường:

"Đông sang Tây không phải đường thư

Đường chuyển đạn và đường chuyển gạo

Đông Trường Sơn, cô gái “ba sẵn sàng” xanh áo

Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh”.

Có người nhận xét: Thơ Phạm Tiến Duật thời chống Mỹ được đánh giá là "có sức mạnh của một sư đoàn”. Thật vậy, cái hay của thơ Phạm Tiến Duật là nhà thơ không chỉ nói lên tình cảm của riêng cá nhân mình mà đã nói lên được tiếng nói của một thế hệ , của dân tộc và cảm xúc lớn của thời đại hồi bấy giờ. Điều này được thể hiện cô đọng ở phần kết của bài:

Những đoàn quân trùng trùng ra trận

Đông Trường Sơn nối tây Trường Sơn".

Từ “bên em” và “bên anh” tuy xa cách thăm thẳm nhưng được nối kết bằng “những đoàn quân trùng trùng ra trận” trong bầu không khí sục sôi, hào hùng. Lòng yêu đời, luôn hướng về ánh sáng, niềm tin chiến thắng trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc được nhà thơ Phạm Tiến Duật khắc họa bằng một tượng đài anh dũng, bất khuất. Tình yêu giữa anh với em và tình yêu đất nước như cuồn cuộn, hoà quyện hóa thành mạch sống dâng trào trong trái tim người lính Trường Sơn, trong mỗi trái tim người dân đất Việt. Đó là những da diết hoà hợp với hơi thở và nhịp sống của cả một thế hệ. Trường Sơn trong trái tim của mỗi chúng ta luôn chứa đựng tình cảm lớn lao và cũng rất đỗi thiêng liêng, là huyết mạch của con đường tiến về giải phóng miền Nam, là những đoàn quân từ Bắc vào Nam trùng trùng điệp điệp, là cuộc hành quân lớn của hậu phương chi viện cho tiền tuyến với tất cả tình cảm máu thịt một nhà. Đây cũng là con đường đầy gian khổ, ác liệt, hy sinh, song vượt lên trên tất cả những gian nan đó là niềm tin sắt son, là ý chí sắt đá, là động lực thôi thúc tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho miền Nam thân yêu.

Phạm Tiến Duật đã thành công trong việc khắc họa và thắp sáng ngọn lửa lý tưởng và sáng ngời của người lính thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Bài thơ là tiếng nói trái tim đang được ngọn lửa yêu nước nung nấu. Chính cuộc sống đã sản sinh ra ngọn lửa trong trái tim người sáng tác. Đối với những người chiến sĩ Trường Sơn từng chiến đấu và hy sinh một thời, thì đây là bài hát bất tử, là nghĩa tình đồng đội và niềm tự hào mỗi khi họ cùng nhau hát về Trường Sơn hùng vĩ, anh hùng.

Thi phẩm viết theo thể thơ tự do, giàu chất nhạc, dễ nhớ, dễ thuộc làm toát lên vẻ đẹp tươi trẻ, chất trữ tình lãng mạn bay bổng hoà quyện với chất sử thi hào hùng.Cấu trúc dễ nhớ, dễ thuộc, bình dị, mang âm hưởng đời thường và đậm chất lính, tính trữ tình quyện chặt với tính hùng ca,cảm xúc đong đầy. Ngôn từ tự nhiên như lời người lính thường hay nói mà vẫn rất thơ. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng nghệ thuật tương phản: mây, mưa, nắng…Bài thơ đã truyền lửa vào trái tim của mỗi người ra trận. Điểm đặc biệt trong bài thơ “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” chính là nhà thơ đã thành công trong việc cách tân để phù hợp với không khí của cuộc chiến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, nhân vật trữ tình được đặt trong một phông nền lớn của đồng đội…Phạm Tiến Duật đã thành công trong việc khắc họa và thắp sáng ngọn lửa lý tưởng và sáng ngời của người lính thời kỳ chống Mỹ cứu nước bởi “không chỉ riêng mình nhà thơ viết “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”, cả con muỗi, con bướm, cái gạt nước, ngọn măng rừng và đồng chí, đồng đội cùng viết chung với nhà thơ Phạm Tiến Duật, tạo nên một bài thơ vừa hài hòa, vừa đẹp đẽ, vừa có giá trị".

Bài thơ đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp nâng cánh bằng những giai điệu tuyệt đẹp, ca từ trong sáng,tiết tấu dễ hát, tính trữ tình quyện chặt với tính hùng ca. Bởi vậy thi phẩm cùng với nhạc phẩm như một cặp song sinh đã và sẽ mãi mãi đi cùng năm tháng, được nhiều thế hệ yêu thích. Mấy chục năm bom đạn khói lửa chiến tranh đã lùi xa, có biết bao bài thơ, bài ca mới ra đời và cũng được nhiều người ưa thích, song bài thơ, bài hát “Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây” vẫn là một bài ca “ đi cùng năm tháng”, có sức sống lâu bền, rất nhiều người thuộc lòng, yêu thích.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của HoaTieu.vn.

Bà Nguyễn Thy Nga: Trong chuyến công tác vừa qua, từ hành trình chuẩn bị cho ký kết thỏa thuận hợp tác giữa NVIDIA và FPT, cũng như ông là đấu mối kết nối những đoàn khảo sát của NVIDIA đến các tỉnh, thành, địa phương để đầu tư cho Việt Nam, ông cảm nhận như thế nào về Việt Nam ở giai đoạn hiện tại, Việt Nam với chiến lược phát triển như hiện nay, với định hướng của Chính phủ, thì các doanh nghiệp, cộng đồng có sẵn sàng đón nhận, bắt kịp những xu hướng mà chúng ta đang chờ đón hay không?

Ông Hoàng Anh Tuấn: Tôi thấy nhìn vào Việt Nam chúng ta có thế mạnh nhất định, không chỉ NVIDIA quan tâm đến Việc Nam, mà hàng loạt các công ty công nghệ hàng đầu thế giới đều quan tâm đến Việt Nam, thế hiện qua hàng loạt chuyến thăm của các CEO và chủ tịch các công ty công nghệ lớn đến Việt Nam, tại sao họ đến Việt Nam nhiều như thế?

Tôi thấy câu chuyện giữa Việt Nam và Mỹ nâng cấp từ Đối tác Toàn diện lên quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện là một cú hích quan trọng, nhưng đằng sau đó là việc họ nhìn thấy tiềm năng thật sự của Việt Nam và chúng ta có khá nhiều thế mạnh. Tôi tạm điểm qua các thế mạnh đó như sau.

Thứ nhất, đó là quy mô dân số. Dân số Việt Nam hiện có 100 triệu người, một thị trường lớn đang phát triển nhanh và độ tuổi dân số nước ta hiện là “độ tuổi vàng”.

Thứ hai, chúng ta có nền tảng khoa học cơ bản mạnh. Trong các nước Đông Nam Á, Việt Nam là nước có nhiều bài báo đăng trên các tạp chí khoa học hàng đầu trên thế giới. Ngoài ra, Việt Nam có hệ thống trường chuyên về khoa học tự nhiên mở rộng đến cấp huyện, có nhiều trung tâm, viện nghiên cứu toán, lý mạnh hàng đầu trong khu vực. Tiềm năng thì chúng ta có, nhưng muốn biến những tiềm năng này thành hiện thực, thì chúng ta cần có những con sếu đầu đàn, cần phải có thủ lĩnh, cần những người biết cách “nhấn nút”, khai phá tiềm năng của chúng ta, biến tiềm năng ấy thành hiện thực.

Bà Nguyễn Thy Nga: Có những câu hỏi đặt ra về việc Việt Nam đã hợp tác như thế nào đối với hợp tác quốc tế. Việt Nam vẫn nổi tiếng trong một số lĩnh vực, trong đó có cả các hợp tác thuộc lĩnh vực công nghệ, là đơn vị gia công, thì trong bức tranh AI, liệu chúng ta có thể làm chủ được công nghệ, không chỉ là một đơn vị hợp tác như trước đây đã có?

Ông Hoàng Anh Tuấn: Trong cuộc đua phát triển công nghệ trên thế giới hơn 50 năm qua, Việt Nam thường đi sau các nước khoảng từ 10 - 15 năm. Ví dụ như cuộc cách mạng PC (tức máy tính tính để bàn), chúng ta cũng đi sau các nước khoảng 20 năm. Trong cuộc cách mạng internet, thiết bị di động cầm tay, chất bán dẫn… chúng ta cũng đi sau nhiều so với thế giới.

Tuy nhiên, kỷ nguyên AI lại khác hẳn. Chúng ta bước vào cuộc đua AI khi cuộc đua này trên phạm vi toàn cầu vừa mới khởi động. Các nước trên thế giới tuy có nhanh chậm đôi chút, nhưng nhìn chung đều ở trên cùng một mặt bằng, cùng ở vạch xuất phát. Nếu chúng ta tiến hành khởi động ngay và có bước đi đúng hướng, chúng ta sẽ nhanh chóng bắt nhịp cùng thế giới, biến nước ta từ quốc gia công nghệ nói chung thành quốc gia khởi nghiệp về AI.

Theo góc nhìn của tôi, tôi cảm nhận rằng AI sẽ là tương lai của thế giới. Ai làm chủ được công nghệ AI, đầu tư đúng hướng, có chính sách đúng đắn phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực AI, thì anh đó sẽ có thể rút ngắn thời gian từ 4 - 5 năm, thúc đẩy sự phát triển của quốc gia mình.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính mới đây đã ban hành Chỉ thị số 12/CT-TTg về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Trong đó, một trong các giải pháp được nhấn mạnh là thu hút các dự án đầu tư nước ngoài có quy mô lớn, công nghệ cao, nhất là trong phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, điện tử, bán dẫn, hydrogen…

Về Chiến lược quốc gia, Chính phủ Việt Nam đã thể hiện được tầm nhìn và xu hướng thời đại. Về nguồn lực, chúng ta cũng đã có những doanh nghiệp trong nước sẵn sàng đầu tư để đón đầu công nghệ… Khi quốc gia chúng ta phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, hệ sinh thái khởi nghiệp và doanh nghiệp công nghệ số, liệu có đang thiếu một thế hệ doanh nhân trẻ dám nghĩ lớn, dám khát vọng?

Phó chủ tịch Nvidia Keith Strier cho biết, sau chuyến đi đến Việt Nam cuối năm ngoái, CEO Jensen Huang nói công ty nên trở lại và đầu tư tại đây.

Ngày 23/4, Nvidia và FPT công bố dự án 200 triệu USD thành lập AI Factory tại Việt Nam. Nhà máy không sản xuất phần cứng mà tăng cường khả năng nghiên cứu, phát triển AI, hoạt động dựa trên bộ ứng dụng và khung công nghệ Nvidia AI Enterprise và chip đồ họa GPU H100 Tensor Core.

Ông Keith Strier, Phó chủ tịch Nvidia, cho biết một trong những giá trị dẫn lối thành công nằm ở con người và văn hóa. Việt Nam có tinh thần văn hóa dân tộc sâu sắc, có trách nhiệm với tương lai và có khả năng lãnh đạo. "Chúng tôi thấy Việt Nam sẵn sàng cho tương lai. Jensen Huang nói công ty nên trở lại Việt Nam và mở rộng kinh doanh. Đó là lý do chúng tôi ở đây hôm nay", ông Strier nói.

Ông nhận định tầm nhìn của FPT phù hợp với định tương lai của Nvidia, do đó họ quyết định hợp tác để "cùng nhau thực hiện ước mơ tiến về phía trước".

Trong khi đó, ông Trương Gia Bình, Chủ tịch FPT, chia sẻ: "Nvidia và FPT sẽ cùng xây dựng cơ sở hạ tầng mới cho tương lai - nền tảng siêu điện toán AI để thúc đẩy sự tiến bộ của con người. Tương lai tuyệt vời đang đến và FPT muốn có mặt ở đó".

Ông Keith Strier, Phó chủ tịch Nvidia, tại lễ ký kết với FPT ngày 23/4 ở Hà Nội. Ảnh: Tuấn Hưng

Phó chủ tịch Nvidia cũng cho biết đại diện công ty đã gặp Thủ tướng Phạm Minh Chính, các bộ trưởng của Việt Nam, cũng như đến thăm Đại học FPT và đánh giá đây là doanh nghiệp có tầm nhìn vượt lên trên nhu cầu về kinh doanh hay lợi nhuận, mà hướng đến việc góp phần thay đổi xã hội.

"Nvidia hy vọng hợp tác lần này có thể đưa năng lực Việt Nam ra thế giới", ông nói.

Một lý do khác thúc đẩy Nvidia đến Việt Nam mở rộng hoạt động kinh doanh là khả năng giải quyết dự án khó, phức tạp của kỹ sư Việt. "Chúng tôi muốn đầu tư, chiêm nghiệm xem Việt Nam đã, đang và sẽ phát triển vượt bậc thế nào để trở thành một quốc gia hùng mạnh", ông Strier cho hay. "Biên bản ghi nhớ hôm nay là cột mốc quan trọng. Chúng tôi có rất nhiều dự định cho mối quan hệ hợp tác này trong tương lai".

Thủ tướng Phạm Minh Chính và ông Jensen Huang, Chủ tịch Nvidia hồi tháng 9/2023. Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Trước đó, trong chuyến thăm và làm việc tại Thung lũng Silicon (Mỹ) hồi tháng 9/2023, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã trao đổi với CEO Nvidia Jensen Huang về xu hướng phát triển AI toàn cầu và tiềm năng hợp tác rộng mở giữa công ty với Việt Nam.

Ba tháng sau, Jensen Huang có mặt tại Việt Nam, gặp gỡ cộng đồng công nghệ trong nước. Ông đánh giá Việt Nam đã sẵn sàng cho công nghệ mới và sẽ đầu tư nâng cao năng lực về con người cũng như hạ tầng cho Việt Nam. "Chúng tôi cam kết với Thủ tướng sẽ biến Việt Nam thành quê hương thứ hai của Nvidia. Chúng tôi sẽ thành lập pháp nhân ở Việt Nam", ông Huang nói.

Cũng theo CEO Nvidia, để tận dụng làn sóng AI, các quốc gia cần ba thành phần và "Việt Nam đã có đủ". Thứ nhất là tài sản dữ liệu về ngôn ngữ, văn hóa sau hàng thập kỷ số hóa và người dân sẵn sàng sử dụng các nền tảng di động. Thứ hai là đội ngũ nhân sự, và thứ ba là hạ tầng.

Tuy nhiên, sau khi có đủ thành phần, Việt Nam cần có tầm nhìn và cam kết mạnh mẽ trong việc phát triển công nghệ mới. Đại diện Nvidia cho rằng từ đội ngũ kỹ sư hiện tại, Việt Nam có thể đào tạo nâng cao năng lực để phục vụ phát triển AI và Nvidia sẽ cùng tham gia quá trình này.

Trần Thanh Xem: Cảm nhận về bài thơ “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”

Cảm nhận về bài thơ “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”

Phạm Tiến Duật là Nhà thơ cách mạng của nền Văn học hiện đại Việt Nam. Ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964 nhưng sau đó không tiếp tục với nghề dạy học mà quyết định lên đường nhập ngũ. Trong thời gian này, Phạm Tiến Duật sáng tác rất nhiều tác phẩm và để lại nhiều bài thơ nổi tiếng như: Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Vầng trăng và những quầng lửa, Gửi em cô thanh niên xung phong... Thơ của Phạm Tiến Duật là tiếng nói ca ngợi tình yêu lứa đôi, tình đồng đội, tình yêu quê hương đất nước với giọng điệu sôi nổi, lạc quan và có chút gì đó tinh nghịch nhưng cũng rất sâu sắc.          Bài thơ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây của nhà thơ Phạm Tiến Duật sáng tác cuối năm 1969, tại tỉnh Quảng Bình. Ngay khi mới ra đời, bài thơ đã luôn có mặt trong túi áo của mỗi người lính trên tuyến lửa. Khi bài thơ được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc thì chất thơ, chất nhạc quyện chặt với nhau, nâng cánh cho nhau vang vọng khắp các chiến trường, thôi thúc hàng triệu trái tim Việt Nam xông pha nơi tiền tuyến, giết giặc lập công, giải phóng đất nước.

Mở đầu bài thơ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây là lời tự tình của đôi lứa yêu nhau nhưng phải chịu sự ngăn cách vời vợi của dãy núi Trường Sơn hùng vĩ, của thời chiến chinh ly loạn và khốc liệt:

“Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn Hai đứa ở hai đầu xa thẳm Đường ra trận mùa này đẹp lắm Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây”

Bằng cấu trúc dễ nhớ, dễ thuộc, bình dị, mang âm hưởng đời thường và đậm màu chất lính, tính trữ tình quyện chặt với tính hùng ca. Nó đã truyền lửa vào trái tim của mỗi người ra trận. Những vần thơ ấy đã thành công về nghệ thuật, cảm xúc đong đầy. Tuy vậy, cái hay hơn có lẽ là nó đã nói lên được cảm xúc lớn của thời đại, của cả một thế hệ trẻ, của cả dân tộc thời ấy.          Mặc dù đã hoàn thành khóa học ngành Sư phạm. Thay vì làm một thầy giáo dạy học nhưng Phạm Tiến Duật lại xin vào quân ngũ với mong ước tha thiết được đi vào chiến trận. Khát vọng đi Bộ đội của Nhà thơ cách mạng này được chấp nhận khi ông trúng tuyển vào Tiểu đoàn Pháo cao xạ Tây Bắc. Trong tâm hồn của người đàn ông đích thực đầy lãng tử ấy đã có sẵn ham muốn được dịch chuyển:

“Trường Sơn Tây anh đi, thương em Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo Muỗi bay rừng già cho dài tay áo Hết rau rồi, em có lấy măng không”

Phạm Tiến Duật hăm hở xin chuyển về Cục Vận tải quân sự thuộc Tổng cục Hậu cần chỉ vì muốn được đắm mình trong cuộc chiến, được tận mắt chứng kiến và nếm trải sự tàn khốc của chiến tranh. Niềm đam mê tự do sáng tạo, cống hiến cho dân tộc cháy bỏng đã làm cho dấu chân Phạm Tiến Duật thật sự cất bước nhẹ nhõm vào chiến trường đầy cam go.          Yêu nước là thế song nhà thơ vẫn giữ cho mình một khoảnh khắc riêng tư. Đó là nỗi nhớ về em, người bạn gái đang hành quân bên sườn Đông dãy Trường Sơn. Trong con người Phạm Tiến Duật, tình yêu nam nữ và tình yêu đất nước hòa quyện vào nhau. Nó trở thành động lực, hành trang nâng bước chân người chiến sĩ.          Có thể nói, cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ và con đường Trường Sơn huyền thoại đã sinh ra một Phạm Tiến Duật thứ hai nhưng lại là con người duy nhất có sức mạnh thống soái và định hình một tính cách, một số phận Phạm Tiến Duật.          Chính cuộc sống thời khói lửa đau thương, mất mát đã thắp lên ngọn lửa trong trái tim người sáng tác. Và không chỉ riêng mình nhà thơ viết “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” mà cả con muỗi, con bướm, cái gạt nước, ngọn măng rừng và đồng chí, đồng đội cùng viết chung với nhà thơ Phạm Tiến Duật, tạo nên một bài thơ vừa hài hòa, vừa đẹp đẽ, vừa có giá trị.          Gắn bó với núi rừng Trường Sơn, với những người lính ngày đêm chiến đấu với kẻ thù, đối mặt với bom đạn, chết chóc, Phạm Tiến Duật luôn có một tinh thần lạc quan. Ông nhìn mọi thứ kể cả những thực tế nghiệt ngã, những góc khuất và những bi kịch của cuộc chiến qua một lăng kính hồn nhiên, tếu táo đến lạ thường:

“Đông sang Tây không phải đường như Đường chuyển đạn và đường chuyển gạo Đông Trường Sơn, cô gái “ba sẵn sàng” xanh áo Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh”

Chiếc xe như một chiến hữu dũng cảm, như một người bạn thân, chung thủy sống chết đã rong ruổi cùng Phạm Tiến Duật trên những dặm dài đường rừng Trường Sơn. Chiếc xe chở Phạm Tiến Duật đi tác chiến trên những trận địa vừa dứt tiếng súng hay nằm vắt vẻo cùng với chủ nhân trên những chiếc xe tải chở vũ khí đạn dược vào chiến trường:

“Từ nơi em đưa đến nơi anh Những binh đoàn nối nhau ra tiền tuyến Như tình yêu nối lời vô tận Đông Trường Sơn, nối tây Trường Sơn”

Sự yêu đời, luôn hướng về ánh sáng, niềm tin chiến thắng trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc được nhà thơ Phạm Tiến Duật khắc họa bằng một tượng đài anh dũng, bất khuất. Từ bên em và bên anh xa cách thăm thẳm nhưng rồi lại được nối kết bằng một đoàn hùng binh nối tiếp nhau ra trận địa trong một bầu không khí sục sôi, oai hùng, lẫm liệt. Tình yêu giữa anh với em và tình yêu nước Việt như cuồn cuộn, hóa thành mạch sống dâng trào trong tâm tư người lính Trường Sơn.          Cho đến bây giờ, Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây vẫn là một bài thơ hay, có sức sống lâu bền trong lòng độc giả. Đối với những người chiến sĩ Trường Sơn từng chiến đấu và hy sinh một thời thì coi đây là bài thơ bất tử, là nghĩa tình đồng đội và niềm tự hào mỗi khi họ cùng nhau nhắc về Trường Sơn hùng vĩ, anh hùng.          Bài thơ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây là một đúc kết từ thực tiển của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Bài thơ được sáng tác trên cảm hứng lịch sử, được ngân lên bằng tiếng lòng, tình cảm đằm thắm, sức sống mãnh liệt và niềm tin tất thắng trong tâm hồn của những người lính Trường Sơn thuở ấy.

Trần Thanh Xem Giáo viên trường THCS thị trấn Tiểu Cần, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh.  Số điện thoại: 0359795262